Câu đố đồ vật:
Trên thì Gia Cát cầu phong
Dưới thời lập trận hỏa công đánh Tào
Hai bên tả hữu xông vào
Đánh cho tào chạy ngã nhào xuống sông.
(Lò rèn)
Vô thủ, vô vĩ, vô nhĩ, vô tâm
Chốn ở sơn lâm hay ăn thịt sống.
(Cái thớt)
Gió lao xao trông ngọn thảo lay
Ban ngày dạo chốn tiền đài
Tối lại nằm kề vách ngọc
Bởi thương chúa nên thân tôi cồi cộc
Gẫm mình tàn còn một nắm xương
(Cây chổi)
Một cột mà chín mười kèo
Vải xanh vải đỏ mà treo bốn bề.
(Cây dù)
Tròn tròn như lá tía tô
Rớt xuống ao hồ đầu ướt đuôi khô.
(Cái vá)
Hai tay nắm lấy hai tay
Trèo lên cái bụng, hai chân chòi chòi.
(Đạp xe)
Phận em là gái cô bác ơi
Kẻ đi qua cọ ba bốn cái
Người đi lại cọ chín mười lần
Em không cho, mích lòng cô bác
Em cho cọ rồi ướt áo mình em.
(Cục đá mài)
Anh đỏ liếm đít chị đen
Chị đen không nói, ăn quen liếm hoài.
Chị đen không nói, ăn quen liếm hoài.
(Ngọn lửa và đít nồi)
Câu đố con vật :
Gươm vàng hai lưỡi gươm vàng
Thác thì chịu thác, chứ buông nàng không buông.
(Con Sam)
Hai tay mang gói thẳng xông
Má kêu mặc má, theo chồng cứ theo.
(Cá bạc má)
Câu đố cây trái, hoa quả:
Cây gì có quả không hoa
Vì chưng không lá chê già, chê non.
(Cây cân)
Thân ta không mẹ không cha
Vốn không họ hàng, ở nhà người dưng.
(Cây chùm gửi)
Đầu rồng đuôi phụng loe hoe
Mùa xuân ấp trứng, mùa hè nở con.
(Buồng cau)
Thân em ở bụi ở bờ
Chồng con không có mà nhờ tiếng kêu.
(Rau má)
Ông già ngồi cạnh bờ sông
Có trăm con mắt mà không thấy đường.
(Trái khóm)
Chặt đầu nối nghiệp tổ tiên
Ép mỡ lấy dầu, xương thịt bỏ đi.
(Cây mía)
Ông lục ổng lội ngang sông
Cái đầu ổng ướt, cái mình ổng khô.
(Lục bình)
Cùng nói về cây xương rồng:
- Sanh ở đất, danh ở trời
Thịt da không có, sống đời cổ kim.
- Danh tôi vốn ở trên trời
Sanh ra cái cốt ở nơi dương trần.
Cùng nói về cây dừa:
- Cha mẹ có tóc, để con trọc đầu
Cha mẹ sống lâu, để con chết chém.
- Một cột nhà mà chín mười kèo
Chồng thì không có mà đeo cả đùm.
Con ai trắng tựa như ngà
Đem ra mà tắm giữa sông giang hà
Tắm rồi phải cởi áo ra
Mình trắng như ngà, đầu đội nón xanh.
(Cây giá)
Mẹ không chồng nuôi con dưới gót
Con nhờ Mẹ bóng mát chở che
Đến khi vui thú thuyền bè
Con ơi ở lại , Mẹ về quê hương
Con nhờ Mẹ bóng mát chở che
Đến khi vui thú thuyền bè
Con ơi ở lại , Mẹ về quê hương
(cây chuối )
Cây gì đêm héo ngày tươi
Hoa làm chong chóng giữa trời đuổi nhau
Mối mọt quen thói đục vào
Gặp ngay chất đắng buồn rầu nhả ra
Cây gì đêm héo ngày tươi
Hoa làm chong chóng giữa trời đuổi nhau
Mối mọt quen thói đục vào
Gặp ngay chất đắng buồn rầu nhả ra
(cây xoan)
Xưa kia tôi ở trên rừng
Người lên cắt gốc , buộc lưng quẩy về
Người giữ , người đánh thỏa thuê
Bắt tôi chịu đủ mọi bề gió sương
Đã vậy người còn không thương
Treo thân dốc ngược trăm đường đắng cay
(cây cỏ gianh)
Lên một thiếp hãy còn son
Lên hai thắt đáy lưng tròn bằng vung
Lên ba thiếp đã có chồng
Đến ngày lên bốn trong lòng thụ thai
Lên năm đẻ thằng con trai
Đến ngày lên sáu đã hai đời chồng
Lên bảy thì lấy quận công
Đến ngày lên tám lộn chồng lấy vua
(cây lúa)
Cây thơm mọc ở cạnh nhà
Bắc giàn lấy lá cho Bà quệt vôi
Bảo không mà có đấy thôi
Đem nghiền nát với cau tươi đỏ lừ
(cây trầu không)
Hai cô cùng tắm một dòng
Lại cùng tắm trần để lộ màu da
Một cô da trắng như ngà
Một cô lại có nước da màu hồng
Giữa cơn nắng hạ oi nồng
Quần rơi trễ xuống lộ mông dậy thì
Cũng là hai bạn nữ nhi
Cớ sao lại thấy rậm rì râu ria
(cây hoa sen & hoa súng)
Một mẹ sinh chín con ra
Chín con lột tất ông cha là mười
Bà mẹ giậm cẳng kêu trời
Lột sao lột hết chín mười cha con
Còn một bầy cháu trên non
Cũng thời lột hết không còn chút da
(cây khoai môn)
Cây xanh lá cũng xanh xanh
Nở bông hoa trắng cho xinh lòng chàng
Quả ăn nóng ruột nóng gan
Châu lệ hai hàng , con mắt đỏ hoe
(cây ớt)
Cây dài trăm thước
Lá rậm rì rì
Sinh đông tử hè
Trái hồng hoa trắng
(cây gấc)
Đầu thì đội nước
Đuôi ở thượng thiên
Mang năm cánh lá mềm
Nằm trong chậu nước , êm đềm chơi xuân
(cây hoa thủy tiên)
Tán xòe một khoảng sân trường
Mùa hè nắng lửa vẫn thường xanh tươi
Chắt chiu hạt nắng của trời
Mùa đông lá thắp lửa ngời ngoài sân
(Là cây bàng )
Sinh ra ta cũng cùng tên
Tôi ở dưới đất , anh lên trên trời
Anh thì thành hạt mưa rơi
Tôi buộc rổ rá , giúp người làm dây
(cây mây)
Mình dài hoa nhọn kim châm
Dầu xanh , dầu trắng , dầu thâm cũng vừa
Dầu ai đi sớm về trưa
Năm canh cũng đợi cũng chờ cả năm
Hoặc :
Sừng sững mà đứng giữa đàng
Quan đi không tránh lại đòi đánh quan
Câu đố về bánh:
Chuột kêu chút chít trong rương
Anh đi cho khéo, đụng giường mẹ hay
(Bánh bò)
Hỏi người ngồi dựa loan phòng
Tóc mây dợn sóng có chồng hay chưa?
(Bánh hỏi)
Dĩnh dịch tròn tròn, khô dòn ướt dẻo
Dù còn tí tẹo, cũng cho rằng nhiều
(Bánh đa)
Sông tròn vành vạnh, núi lạnh như tiền
Con gái nhà tiên, đâm đầu mà lặn
(Bánh trôi nước)
Sinh hoạt của con người:
Năm thằng cầm hai cái sào
Đuổi đàn trâu trắng chui vào trong hang.
(Ăn cơm)
Hiên ngang mà đứng giữa đồng
Cầm cờ tập trận, rộn ràng tiến quân.
(Người chăn vịt)
Câu đố về thời gian:
Thoạt đẻ thì mọc hai sừng
Đến khi lưng chừng thì ễnh bụng ra.
(Trăng đầu và giữa tháng)
Xanh xanh, đỏ đỏ, vàng vàng
Bắc cầu hoa lý, nằm ngang giữa trời.
(Cầu vồng)
Câu đố về danh nhân:
Đất Bến Tre cũng là nơi sinh ra nhiều nhân vật nổi tiếng như Nguyễn Đình Chiểu, Phan Thanh Giản, Trương Vĩnh Ký... Loại câu đố “xuất nhân danh” ở đây cũng đã khắc họa được đặc trưng riêng về những con người đó. Có trường hợp đọc lên là có thể hiểu ngay như câu đố về cụ Đồ Chiểu:
Quyết tâm rửa sạch quốc thù
Ô hô cặp mắt, công phu lỡ làng.
Ô hô cặp mắt, công phu lỡ làng.
(cụ đồ chiểu)
Hay như câu đố về người phụ nữ làm chủ bút tờ báo tiếng Việt đầu tiên ở nước ta, tờ Nữ giới chung: bà Sương Nguyệt Anh.
Đem chuông lên đánh Sài Gòn
Để cho nữ giới biết con ông Đồ.
Để cho nữ giới biết con ông Đồ.
Cũng có những câu đố “Xuất nhân danh” đòi hỏi người đoán giải phải có kiến thức về lịch sử như trường hợp câu đố về nhà bác học Trương Vĩnh Ký:
Xứng danh thập bát văn hào
Soạn nhiều sách quý giúp trào hậu lai.
Soạn nhiều sách quý giúp trào hậu lai.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét